- Tổng quan Bệnh Bạch hầu
Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Corynebacterium diphtheria gây ra. Những người chưa được tiêm chủng, nếu nhiễm bệnh Bạch hầu có thể tử vong tới 10-20%.
Bệnh bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm.
Họ vi khuẩn Corynebacterium có gần trăm loài, chủ yếu sống trong đất. (Trong đó Corynebacterium glutamicum để sản xuất mì chính). Một số ít loài Corynebacterium gây bệnh ở người, quan trọng nhất là C. diphtheria gây bệnh bạch hầu, ngoài ra còn có C. jeikeum, C. ulcerans hay C. pseudotuberculosis gây viêm da và các nhiễm trùng cơ hội khác. Có 4 thứ type C. diphtheria gây bệnh Bạch hầu là mitis , intermedius , gravis và belfanti . Trong đó gravis là loại sinh trưởng nhanh và gây bệnh nặng hơn cả. Tại Việt Nam type chủ yếu là mitis.
C. diphtheria gây nhiễm ở vùng hầu họng, và phát tán, lây lan qua đường hô hấp thông qua các các giọt bắn. Khi nhân lên ở hầu họng bệnh nhân, chúng có thể tiết ra ngoại độc tố. Ngoại độc tố bạch hầu (DT) là protein có 2 thành phần A và B. Đoạn B gắn vào màng tế bào vật chủ giúp đưa đoạn A vào nội bào. Đoạn A ức chế quá trình tổng hợp protein trong tế bào dẫn đến chết tế bào. Do vậy khi vi khuẩn bạch hầu tiết độc tố sẽ gây chết tế bào, tạo ra các mảng hoại tử, lắng đọng fibrin tại hầu họng thành cách màng giả ở vùng hầu họng bệnh nhân. Nếu độc tố đi vào máu có thể xâm nhập và gây tổn thương tế bào cơ tim, ống thận theo cơ chế tương tự. Điều lý thú là bản thân vi khuẩn bạch hầu không có gen sinh độc tố (tox) mà gen này nằm trong 1 loại thực khuẩn thể (phage). Khi phage này ký sinh vào vi khuẩn, chúng kích hoạt gen tox sinh ra độc tố DT, đồng thời với gây ly giải vi khuẩn. Quá trình này bị kích hoạt mạnh nếu môi trường ngoại bào thiếu sắt. Điều đó lý giải tại sao có những khu vực khá nhiều người cấy tìm trong hầu họng tìm thấy C. diphtheria nhưng quần thể vi khuẩn đó không bị phage ký sinh nên không gây bùng phát dịch bạch hầu.
Bệnh bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng do các chủng vi khuẩn có tên Corynebacteria diphtheriae gây ra.
Phổ bệnh lâm sàng của bệnh bạch hầu đa dạng từ bệnh nhân không triệu chứng, bạch hầu da đến tình trạng viêm họng giả mạc, bạch hầu hô hấp hoặc nhiễm độc toàn thân. Một trường hợp bệnh bạch hầu điển hình thường qua giai đoạn ủ bệnh từ 2-5 ngày, sau đó khởi phát với các triệu chứng đau và viêm họng nhẹ. Khám họng bệnh nhân có thể thấy vết loét có giả mạc màu trắng xám dai, khó bóc bám ở vùng amidal, thành bên và sau họng hoặc thậm chí lan rộng xuống thanh môn và khí quản.
2. Các triệu chứng thường gặp khác bao gồm:
Đau họng (85-90%), Sốt nhẹ và ớn lạnh, mệt mỏi, suy nhược, đau đầu, viêm hạch cổ thành hình ảnh cổ bạnh to. Giả mạc đường hô hấp gặp ở khoảng 50% số bệnh nhân, khàn tiếng, khó nuốt và nuốt đau (26-40%). Ngoài ra bệnh nhân có thể có chảy dịch mũi huyết thanh hoặc mủ, giả mạc lan lên lỗ mũi sau. Khó thở, thở rít, thở khò khè ở những bệnh nhân có giả mạc thanh quản. Giả mạc này có thể nhanh chóng gây suy hô hấp do tắc nghẽn đường thở hoặc hít phải màng giả vào khí quản phế quản. Những diễn biến trầm trọng như viêm cơ tim, tổn thương thận thường xảy ra sau khi mắc bệnh 1-2 tuần, là lúc các triệu chứng ở hầu họng có thể đã lui. Viêm cơ tim cấp tính biểu hiện bằng suy tim sung huyết, sốc, thay đổi song ST và T trên điện tim và loạn nhịp tim.