Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có tính chất gây dịch, chủ yếu lây truyền theo đường hô hấp, do trực khuẩn Corynebacterium diphtheriae (còn gọi là trực khuẩn Klebs- Leoffler) gây nên. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng 70% là ở trẻ dưới 15 tuổi và chưa tiêm vaccine. Ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ tử vong của bệnh cũng lên tới 5-10%. Bệnh bạch hầu thuộc nhóm B (là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong) trong Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm của nước ta.
1. Tác nhân gây bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Corynebacterium diphtheriae là trực khuẩn hình que hơi phình một đầu hình chùy, Gram dương, hiếu khí, không sinh nha bào, không có vỏ, không di động.
Trực khuẩn gây bệnh chủ yếu bằng ngoại độc tố (exotoxin) dẫn đến phù nề, sau đó hoại tử và loét niêm mạc, tạo ra các giả mạc bám chặt vào niêm mạc.
2. Bệnh bạch hầu lây qua đường nào?
Nguồn gây bệnh bạch hầu là các bệnh nhân nhiễm bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn nhưng không biểu hiện bệnh. Bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc với giọt bắn của người nhiễm bệnh lúc ho, hắt hơi.
Ngoài ra, bệnh có thể lây qua con đường gián tiếp khi tiếp xúc với đồ vật bị nhiễm dịch mũi hầu từ người bệnh. Bệnh cũng có thể lây nhiễm khi tiếp xúc với vùng da tổn thương do bạch hầu.
3. Biểu hiện bệnh bạch hầu
* Bạch hầu họng thể thông thường (70%)
– Thời kỳ ủ bệnh: 2 – 5 ngày, thời kỳ này không có triệu chứng lâm sàng.
– Thời kỳ khởi phát: trẻ sốt nhẹ 37,5°C – 38°C, mệt mỏi khó chịu, quấy khóc, da xanh, sổ mũi một hoặc 2 bên. Họng hơi đỏ, có điểm trắng mờ nhạt ở 1 bên tuyến hạnh nhân. Màng giả dễ bong nhưng mọc lại ngay, sau đó dính chặt vào mô ở dưới. Hạch cổ nhỏ di động không đau.
– Thời kỳ toàn phát: vào ngày thứ 2-3 của bệnh. Đặc điểm nổi bật là sự lan tràn của giả mạc (có khi chỉ vài giờ đôi khi tới vài ngày)
+ Bệnh nhân sốt 38°C – 38,5°C, nuốt đau, da tái, mệt mỏi. Mạch nhanh, huyết áp hơi hạ, nước tiểu có albumin.
+ Màng giả lan xuống 1 bên hoặc 2 bên tuyến hạnh nhân. Nặng hơn màng giả lan tràn trùm lưỡi gà và màn hầu. Màng giả màu trắng ngà, dính chặt vào mô ở dưới gây chảy máu khi bóc tách, bóc tách sau vài giờ mọc lại rất nhanh. Màng giả không bị tan ra khi cho vào nước. Niêm mạc xung quanh màng giả thường xung huyết.
+ Hạch góc hàm nhỏ, chắc, di động, sờ không đau. Sổ mũi, nước mũi trắng.
* Bạch hầu thanh quản (20-30%)
Kéo dài 5-7 ngày. Hiếm có tiên phát thường hậu phát do không được điều trị kịp thời (sau bạch hầu họng). Màng giả lan xuống thanh quản gây ra bệnh bạch hầu thanh quản. Thường gặp ở trẻ từ 2-5 tuổi.
* Bạch hầu ác tính
Bệnh bạch hầu có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được điều trị kịp thời. Các biến chứng thường gặp nhất là biến chứng tim (thường là viêm cơ tim và rối loạn dẫn truyền trong tim) và thần kinh (gây liệt). Ngoài ra có thể gặp biến chứng trên thận, gan, tuyến thượng thận…
4. Điều trị bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu cần được phát hiện và điều trị sớm để tránh gây biến chứng và dẫn đến tử vong. Bộ Y tế đã ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh Bạch hầu” theo quyết định số 2957/QĐ-BYT ngày 10/07/2020.
Liệu pháp điều trị chính của bệnh bạch hầu là huyết thanh kháng độc tố bạch hầu (SAD), cần được sử dụng càng sớm càng tốt để trung hòa độc tố bạch hầu còn lưu hành trong máu (hiệu quả nhất là trong vòng 48 giờ đầu).
Bên cạnh đó, kháng sinh (thường là Penicillin và Erythromycin) cũng được sử dụng để ngăn chặn sự phát triển và sinh độc tố của vi khuẩn và làm giảm sự lây nhiễm bệnh.
Các biện pháp điều trị phối hợp khác cũng được sử dụng như corticosteroid, quản lý đường thở, quản lý tim mạch và chế độ dinh dưỡng.
5. Phòng bệnh bạch hầu
Tất cả người bệnh nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly, theo dõi, chẩn đoán và điều trị. Nhà ở của người bệnh, dụng cụ trong phòng, đồ dùng, quần áo của người bệnh phải được tẩy uế và sát khuẩn.
Thực hiện rửa tay đúng quy cách bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn.
Người tiếp xúc với bệnh nhân bạch hầu cần được sử dụng kháng sinh dự phòng.
Vaccine bạch hầu có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể tránh nhiễm bệnh và làm giảm tỷ lệ mắc bệnh trong quần thể dân số nói chung. Do đó, trẻ em cần được tiêm chủng đầy đủ vaccine (Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván, DPT) theo chương trình tiêm chủng. Người lớn nên tiêm nhắc lại vaccine bạch hầu mỗi 10 năm để củng cố khả năng miễn dịch của cơ thể.